Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Tin Tức

Nhà thơ Quang Dũng đã sáng tác bài thơ Tây Tiến trong hoàn cảnh đang là một người lính chiến đấu trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược. Từng câu thơ của ông mang cái hồn của đất nước.

Những người lính xa nhà trong cuộc chiến tranh gian khổ nhưng vẫn một lòng yêu nước đã cho ra đời bài thơ Tây Tiến hào hoa, lãng mạn…

Bài 1. Bài văn của em Nguyễn Hồng Thanh bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

Có những ngày tháng không thể quên, cái gian khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào hùng lãng mạn cũng không thể quên. May mắn thay, giữa những ngày tháng không thể quên ấy, lại có những bài thơ không thể quên, như Tây Tiến của Quang Dũng. Thật ra số phận của Tây Tiến cũng khá truân chuyên. Đã có lúc Tây Tiến được trích dẫn như một dẫn chứng để phê phán cái xu hướng gọi là “tiểu tư sản” trong thơ kháng chiến, một “đối chứng” để khẳng định những gì nên có trong thơ mới. Nhưng rồi Tây Tiến cuối cùng được nhớ lại như một kỷ niệm đẹp của kháng chiến, một tiếng thơ bi tráng của một nền thơ.

Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Thành công đầu tiên của Quang Dũng là đã chọn cho bài thơ một thể thơ rất hợp: thể bảy chữ; nhưng không phải bảy chữ Đường luật mà là bảy chữ thể hành; mỗi đoạn thơ ăn theo một vần bằng, cứ một câu vần bằng lại một câu vần trắc. Điệu thơ ấy, cách ăn vần ấy, tạo cho bài thơ một nhạc điệu vừa cổ kính nghiêm trang, vừa phóng khoáng bay bổng, vừa trùng điệp như trải ra vô tận, điệu thơ ấy, lại cộng với cách dùng từ hơi cổ kính một chút của Quang Dũng, khiến cho bài thơ ngay khi vừa đọc lên, đã có một không khí vừa man mác bâng khuâng vừa lãng mạn hào hùng. Nếu Quang Dũng sử dụng một thể thơ khác kể cả thất ngôn tứ tuyệt trường thiên như ở “Mắt người Sơn Tây”, điệu thơ sẽ khác đi, không khí bài thơ cũng sẽ khác đi, sẽ buồn hơn, và sẽ không còn là Tây Tiến nữa.

Xem Ngay Bài Viết  Tải phần mềm vẽ anime trên máy tính

Nhưng đây không phải là vấn đề lựa chọn. Cảm hứng nghệ thuật của Quang Dũng, nhu cầu bên trong của nhà thơ, đã tìm đúng cái dạng hình phải có cho sự thổ lộ của mình, để cho Tây Tiến ra đời và cuộc sống đời đầy thăng trầm nhưng mãnh liệt của nó. Hình như có lúc nhan đề bài thơ gồm những ba chữ kia: Nhớ Tây Tiến. Cái nhan đề hơi thừa nhưng lại rõ nghĩa. Tây Tiến là một cảm hứng bắt nguồn từ kỷ niệm, kỷ niệm về một đoạn đời chiến đấu, về một miền đất, kỷ niệm về những người đồng đội, cả những kỷ niệm khó quên về chính mình.

Trong đời có những lúc nào đò, kỷ niệm bỗng sống dậy với những đường nét và sắc màu nóng bỏng để gợi lên những cảm xúc và hoài niệm vô tận. Kỷ niệm về Tây Tiến, về cuộc hành quân tiến về tây đánh giặc bên kia biên giới Việt Lào, đã bắt đầu như thế. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Nhớ chơi vơi! Hai tiếng chơi vơi dùng ở đây thì thật là đắc địa. Nhớ chơi vơi là nỗi nhớ không có hình, không có lượng, hình như nhẹ tênh tênh mà nặng vô cùng, bởi không đo nó được, không cân nó được, chỉ biết nó lửng lơ, đầy ắp, mênh mông, nó ám ảnh tâm trí mình, nó da diết thương nhớ vô cùng. Nhớ chơi vơi, ít ai nói như thế, hình như trong ca dao cũng có và chỉ có một lần nỗi nhớ như thế xuất hiện: Ra về nhớ bạn chơi vơi…

Trong bài thơ Quang Dũng, hai tiếng chơi vơi này lại ăn vần với tiếng “ơi” ở câu trên, nên càng bộc lộ hết sắc thái ngữ nghĩa và sức khơi gợi của chúng, càng trở nên như một tiếng vang tức thời bật lên từ cõi nhớ: nhớ Tây Tiến – nhớ ngay về rừng núi. Ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến là ấn tượng về rừng núi. Cả một đoạn thơ bắt đầu gồm 14 câu đều dành cho kỷ niệm về rừng núi một vùng bát ngát miền Tây, một vùng biên giới Việt Lào. Mà rừng núi mới dữ dội, khắc nghiệt làm sao: núi cao, dốc thẳm, sương dày, mưa mịt mù trời đất, thác gầm, cọp dữ… Miền Tây, ấy là nơi ngự trị của vẻ thâm u, hoang dã, những thách thức gớm ghê đặt ra trước con người; thiên nhiên ở đây luôn là một mối đe doạ, một sức mạnh sẵn sàng vồ lấy con người, nuốt chửng con người. Ta chớ quên rằng, vào cái mùa xuân Tây Tiến ấy, những người lính Tây Tiến như Quang Dũng chỉ vừa mới ra đi từ một mái trường hoặc một góc phố nào đó của Hà Nội – Thăng Long, nơi có Hồ Gươm, Tháp Bút, Tháp Nghiêng, có liễu Hồ Tây, có ba mươi sáu phố phường, có cả những cuộc chiến đấu trên chiến luỹ ác liệt mà vẫn pha nét hào hoa… ấn tượng trước miền Tây vì thế càng ghê gớm. “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm. Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Xem Ngay Bài Viết  BÁN HÀNG TRÊN SENDO HIỆU QUẢ VÀ THU HÚT KHÁCH HÀNG

Từng chi tiết: sương, dốc, mây, mưa… đều được Quang Dũng đưa ra với ấn tượng mạnh nhất của nó. Sương thì dày đến “lấp” cả đoàn quan, dốc thì đã “khúc khuỷu” lại “thăm thẳm”, đã “nghìn thước lên cao” lại “nghìn thước xuống”, “cồn mây” thì heo hút và cao đến “súng ngửi trời”, mưa đến mức những ngôi nhà như bồng bềnh trên biển khơi…

Những từ địa danh Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch xa lạ càng làm tăng cái ấn tượng xa ngái, hoang sơ lên một bậc nữa. Đọc mấy câu thơ sau đây: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Tự nhiên thấy rợn ngợp cả người, cứ như khi đọc mấy câu thơi trong “Thục đạo nan” của Lý Bạch: Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!” (Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)

Hoặc như khi đọc “Chinh phụ ngâm” mà đến câu: “Hình khe thế núi gần xa. Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao… Tây Tiến là một cuộc hành quân cực kỳ gian khổ, gian khổ đến độ: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.” Gian khổ tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người. Những người gục xuống trên đường đi, gục xuống khi chân còn đi; chỉ khi “không bước nữa”, không thể bước nữa mới “gục lên súng mũ”, và thế là “bỏ quên đời” chứ không phải nằm xuống, ngã xuống.

Xem Ngay Bài Viết  Top 4 phần mềm ghi âm cuộc gọi 2 chiều cho android bạn phải biết

Cái ý thơ này dẫu buồn mà vẫn không bi đát, bởi vì con người ở đây vẫn vượt lên mình, dẫu không áp đảo được khó khăn nhưng không khuất phục, và cho đến khi chết, vẫn chết trong cuộc hành trình. Thật là một hình ảnh vừa bi vừa hùng. Nó đúng với cái không khí thời đại của đấtnước đang bước vào một cuộc chiến đấu mà mỗi người chỉ có hai tay không và một tấm lòng, phải đương đầu với súng đạn bom pháo của một bầy giặc mạnh, chiến đấu cho một lời thề thiêng liêng: “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày về, giống như lời một bài hát rất thịnh hành ngày đó: Đoàn vệ quốc quân m

Rate this post